Tạo việc làm – Ngoisao.info https://ngoisao.info Trang tin tức ngôi sao online Fri, 12 Sep 2025 11:18:04 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/ngoisao.info/2025/08/ngoisao.svg Tạo việc làm – Ngoisao.info https://ngoisao.info 32 32 Người thương binh làm nên thành công: Tạo việc làm và xây dựng cho quê hương Quảng Bình https://ngoisao.info/nguoi-thuong-binh-lam-nen-thanh-cong-tao-viec-lam-va-xay-dung-cho-que-huong-quang-binh/ Fri, 12 Sep 2025 11:18:00 +0000 https://ngoisao.info/nguoi-thuong-binh-lam-nen-thanh-cong-tao-viec-lam-va-xay-dung-cho-que-huong-quang-binh/

Ông Đinh Minh Đức, sinh năm 1952, tại thôn Yên Thắng, xã Minh Hóa, đã có một thời gian chiến đấu ác liệt tại chiến trường Quảng Trị và bảo vệ biên giới phía Tây Nam của Tổ quốc. Với những vết thương trên người, ông đã trở về quê hương và không chịu khuất phục trước bệnh tật, đói nghèo. Thay vào đó, ông đã vươn lên làm giàu cho bản thân và quê hương.

Công ty TNHH Liễu Lựu do ông Đinh Minh Đức làm giám đốc chuyên cung cấp đá xây dựng - Ảnh: X.V
Công ty TNHH Liễu Lựu do ông Đinh Minh Đức làm giám đốc chuyên cung cấp đá xây dựng – Ảnh: X.V

Thanh xuân ở chiến trường

Năm 1970, khi vừa tròn 18 tuổi, Đinh Minh Đức đã tạm gác bút nghiên tình nguyện lên đường nhập ngũ, tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sau 8 tháng huấn luyện, đơn vị của ông dự kiến tăng cường vào chiến trường miền Nam. Tuy nhiên, khi hành quân đến Quảng Trị, đơn vị lại được lệnh tham gia chiến dịch Đường 9 – Nam Lào.

Ông Đức kể lại những ngày tháng chiến đấu: “Ngày đó, đơn vị của chúng tôi chủ yếu chiến đấu trong rừng nên nhiều người bị sốt rét. Trong khó khăn, chúng tôi vẫn kiên cường bám rừng, bám trận địa đánh trả những cuộc phản kích bằng không quân của giặc Mỹ”. Cuối năm 1971, ông và nhiều đồng đội bị sốt rét nên phải chuyển ra Bắc điều trị, củng cố lực lượng cho một đơn vị khác.

Năm 1972, người lính trẻ Đinh Minh Đức tiếp tục quay lại chiến trường Quảng Trị, được biên chế vào Cục Hậu cần, Mặt trận B5. Nhiệm vụ của ông là đưa đón lực lượng dân công hỏa tuyến, bộ đội qua lại địa bàn, làm công tác giao liên. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng, góp phần đưa người, phương tiện, thông tin ra vào chiến trường an toàn.

Ông Đức nhớ lại: “Có lần, tôi nhận được thông tin địch sẽ ném bom vào một đơn vị vận tải vừa vận chuyển quân nhu, đạn dược đang tập kết trên địa bàn nên tức tốc lên đường báo tin. Đêm đó, một mình tôi đi trong rừng, vượt qua nhiều con suối. Có những lúc địch ném bom dọc đường nên phải tắt đèn, nhìn lên trời cắt hướng mà đi”.

Sau nhiều năm gắn bó tuổi thanh xuân nơi chiến trường, năm 1988, ông Đức quyết định phục viên.

Khởi nghiệp trên quê hương

Trở về quê hương, cuộc sống gia đình ông Đức gặp muôn vàn khó khăn nhưng người lính năm xưa vẫn không chùn bước. Ông làm thuê nhiều nghề khác nhau để lo cho gia đình. Ông Đức kể: “Tôi về làng chỉ với bộ quần áo lính, trong tay không có đồng vốn nào. Con còn nhỏ, cha mẹ già yếu nên cuộc sống vô cùng cơ cực”.

Thấy địa phương có trữ lượng đá xây dựng lớn trong khi người dân phải đi mua đá ở nơi khác nên ông đã mạnh dạn vay vốn ngân hàng và người thân để thành lập công ty khai thác đá.

Năm 2008, Công ty TNHH Liễu Lựu, chuyên khai thác và chế biến đá xây dựng do ông Đức làm giám đốc được thành lập. Ban đầu, vốn ít, máy móc lạc hậu, thị trường tiêu thụ bấp bênh nên công ty gặp rất nhiều khó khăn.

Tuy nhiên, ông Đức đã kiên trì tìm khách hàng, giữ chữ tín trong kinh doanh, dần dần công ty có chỗ đứng trên thị trường. Đến nay, công ty của ông đã được cấp phép khai thác, chế biến đá trên diện tích gần 4ha. Hệ thống máy móc được đầu tư hiện đại, gồm: Một máy chế biến đá có công suất 75 tấn/giờ, 4 máy xúc đào, 1 máy xúc lật, 2 ô tô tải và một giàn khoan đá… với mức đầu tư trên 4 tỉ đồng.

Hiện, công ty của ông đáp ứng khoảng 40% đá xây dựng trên địa bàn huyện Minh Hóa, doanh thu đạt khoảng 3 tỉ đồng, mang lại lợi nhuận cho gia đình ông khoảng 600 triệu đồng/năm. Không chỉ mang lại thu nhập ổn định cho gia đình, công ty của ông Đức còn tạo việc làm thường xuyên cho 15 lao động địa phương với mức lương bình quân 10 triệu đồng/người/tháng.

Ông Đức đã nhận được nhiều giấy khen, bằng khen của các cấp, ngành về thành tích xuất sắc trong sản xuất, kinh doanh giỏi, thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, đóng góp tích cực cho phong trào xây dựng nông thôn mới ở địa phương.

]]>
Nông dân sáng tạo: Làm giàu từ sản xuất OCOP và ứng dụng khoa học kỹ thuật https://ngoisao.info/nong-dan-sang-tao-lam-giau-tu-san-xuat-ocop-va-ung-dung-khoa-hoc-ky-thuat/ Thu, 28 Aug 2025 01:33:41 +0000 https://ngoisao.info/nong-dan-sang-tao-lam-giau-tu-san-xuat-ocop-va-ung-dung-khoa-hoc-ky-thuat/

Ở xã Trung Lý, cấp ủy và chính quyền địa phương đã tích cực đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Mục tiêu là xây dựng và nhân rộng các mô hình kinh tế, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, giúp người dân đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.

Người dân xã Thường Xuân áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất dưa Kim Hoàng hậu trong nhà màng, nhà lưới mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Người dân xã Thường Xuân áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất dưa Kim Hoàng hậu trong nhà màng, nhà lưới mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Anh Thào A Thái, một cư dân tại bản Tà Cóm, xã Trung Lý, là một điển hình trong số những người đã áp dụng thành công khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi. Anh Thái đã chuyển hướng từ sản xuất nông nghiệp truyền thống sang chăn nuôi trâu bò sinh sản và thương phẩm. Với sự hỗ trợ từ chính sách khuyến khích chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi của địa phương, anh Thái đã mạnh dạn đầu tư vào chăn nuôi.

Trước đây, anh Thái là một hội viên nông dân thuần túy, gắn bó với nương lúa, đồi ngô, quanh năm “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Tuy nhiên, từ năm 2020, anh đã quyết định thay đổi phương thức sản xuất. Anh đã mua 3 cặp trâu bò về nuôi và áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi. Với sự chăm chỉ và kiên trì, anh Thái đã giúp đàn trâu bò của mình sinh sôi nhanh chóng. Đến nay, gia đình anh đã có hơn 50 con bò và 20 con trâu, trở thành hộ gia đình có số lượng gia súc nhiều nhất bản Tà Cóm.

Không chỉ thành công trong chăn nuôi, anh Thái còn triển khai mô hình trồng rừng, khoanh nuôi trên 15ha rừng sản xuất với các loại cây lấy gỗ như xoan, lát… Từ mô hình kinh tế tổng hợp của mình, sau khi trừ chi phí, mỗi năm gia đình anh Thái thu lãi khoảng 300 triệu đồng.

Anh Thái không chỉ là một gương điển hình trong phát triển kinh tế gia đình mà còn là một người có uy tín trong cộng đồng. Anh đã tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ cho bà con dân bản cùng phát triển kinh tế. Anh đã hỗ trợ kiến thức, kinh nghiệm sản xuất cho 10 gia đình trong bản và giúp đỡ 6 hộ nghèo phát triển sản xuất, vươn lên ổn định cuộc sống.

Thời gian qua, xã Trung Lý đã triển khai nhiều mô hình kinh tế nông nghiệp hiệu quả, góp phần tạo việc làm, giảm nghèo bền vững cho người dân địa phương. Các mô hình này bao gồm trồng quế trên diện tích 20ha với 20 hộ tham gia; mô hình điểm trồng “Cây sắn năng suất cao”; mô hình tổ hợp tác chăn nuôi vịt; nuôi gà thương phẩm; mô hình trồng dược liệu, phát triển cây ăn quả, cây đặc sản…

Các xã khác như Xuân Bình, Thượng Ninh, Thanh Phong cũng tập trung tuyên truyền, hướng dẫn Nhân dân áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm thay đổi tập quán canh tác, chuyển đổi các mô hình sản xuất. Các mô hình này đã giúp khai thác tiềm năng, lợi thế về đất đai ở địa phương, góp phần bảo đảm an ninh lương thực và tăng thu nhập cho người dân.

Qua khảo sát cho thấy, còn rất nhiều mô hình kinh tế nông nghiệp được áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, qua đó góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế – xã hội, giảm nghèo bền vững ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số xứ Thanh. Theo kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo định kỳ năm 2024, đến nay tỷ lệ hộ nghèo khu vực miền núi của tỉnh giảm 4,43% (từ 11,04% xuống còn 6,61%); tỷ lệ hộ cận nghèo giảm 2,66% (từ 14,01% xuống còn 11,35%).

Những kết quả đạt được đã nhân lên niềm tin của đồng bào dân tộc khu vực miền núi đối với các mô hình kinh tế nông nghiệp hiệu quả. Điều này cho thấy rằng, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp là một hướng đi đúng đắn và cần được tiếp tục nhân rộng trong thời gian tới.

Có thể thấy, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp đã mang lại nhiều lợi ích cho người dân. Không chỉ giúp tăng thu nhập, mà còn góp phần bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Trong thời gian tới, các địa phương cần tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Đồng thời, cần có các chính sách hỗ trợ để khuyến khích người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.

]]>
Tuyên Quang: Phụ nữ làm chủ các dự án công nghệ 4.0, tăng thu nhập và việc làm https://ngoisao.info/tuyen-quang-phu-nu-lam-chu-cac-du-an-cong-nghe-4-0-tang-thu-nhap-va-viec-lam/ Sun, 24 Aug 2025 12:34:39 +0000 https://ngoisao.info/tuyen-quang-phu-nu-lam-chu-cac-du-an-cong-nghe-4-0-tang-thu-nhap-va-viec-lam/

Ở Tuyên Quang, Dự án 8 “Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em” đã được triển khai một cách hiệu quả thông qua việc hỗ trợ các tổ nhóm sinh kế, hợp tác xã do phụ nữ làm chủ trong việc ứng dụng công nghệ 4.0 vào sản xuất và kết nối thị trường. Nhờ đó, nhiều hội viên phụ nữ đã có thể nâng cao thu nhập, tạo việc làm và vươn lên làm giàu bền vững.

Theo báo cáo, các cấp Hội Phụ nữ ở Tuyên Quang đã hỗ trợ 52 tổ nhóm sinh kế và hợp tác xã trong việc ứng dụng công nghệ 4.0. Bên cạnh đó, 55 hội nghị tập huấn đã được tổ chức, thu hút sự tham gia của 1.700 người, nhằm hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ 4.0 nâng cao quyền năng kinh tế cho tổ, nhóm sinh kế. Việc ứng dụng công nghệ 4.0 đã giúp các sản phẩm của hội viên phụ nữ tiếp cận được với thị trường rộng lớn hơn thông qua sàn thương mại điện tử, từ đó tăng doanh thu và cải thiện đời sống.

Một ví dụ điển hình là Hợp tác xã (HTX) Nông sản Dầu Lạc Đồng Yên, đã ứng dụng công nghệ 4.0 trong sản xuất và kết nối thị trường. Nhờ đó, sản phẩm dầu lạc của họ đã được bán đến các tỉnh, thành trên cả nước thông qua chiếc điện thoại thông minh. Chị Mạc Thị Miến, HTX Nông sản Dầu Lạc Đồng Yên, xã Đồng Yên cho biết, trước đây họ chỉ chờ thương lái đến mua trực tiếp, nhưng nay đã có thể bán hàng online và tiếp cận chuyển đổi số để quảng bá, phát triển sản phẩm.

Tương tự, chị Phạm Thị Hồng, Giám đốc HTX Nông nghiệp hữu cơ Hồng Phát, xã Kim Bình, đã mạnh dạn phát triển các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ nhờ sự hỗ trợ từ các cấp Hội Phụ nữ. Sản phẩm trà túi lọc đậu đen xanh lòng của HTX đã đạt OCOP 4 sao vào năm 2021 và năm 2022 được UBND tỉnh Tuyên Quang công nhận là sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu của tỉnh. Hiện, HTX tạo việc làm cho 6 lao động tại xưởng, mức lương từ 6-8 triệu đồng/người/tháng và doanh thu trên 4 tỷ đồng/năm.

Những kết quả tích cực từ việc triển khai Dự án 8 tại Tuyên Quang cho thấy, việc hỗ trợ phụ nữ ứng dụng công nghệ 4.0 vào sản xuất và kinh doanh đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần nâng cao quyền năng kinh tế cho phụ nữ và thúc đẩy sự phát triển bền vững của địa phương.

]]>